Cuốn sách “Chia Rẽ: Tại Sao Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Đại Của Những Bức Tường?” của tác giả Tim Marshall là một tác phẩm khách quan về địa chính trị, vẽ nên bức tranh chân thực về một thế giới đang bị chia cắt bởi những bức tường hữu hình và vô hình.

Thông điệp chính của tác phẩm muốn truyền tải tới người đọc:

Điểm nổi bật của “Chia Rẽ”:

Mời mọi người đọc “Chia Rẽ: Tại Sao Chúng Ta Đang Sống Trong Thời Đại Của Những Bức Tường?” của Tim Marshall & Trần Trọng Hải Minh (dịch) để khám phá thêm về bức tranh chia rẽ toàn cầu.

► Đừng bỏ qua sách này nhé:

Giới thiệu

Bức tường biên giới giữa Israel và Bờ Tây là một trong những nơi hung hãn và thù địch nhất trên thế giới. Nhìn ở khoảng cách gần, dù ta ở phía nào, bức tường dựng lên từ mặt đất, gây choáng ngợp và áp chế ta. Đối mặt với dải thép và bê tông trơ trụi đó, ta trở nên nhỏ bé không chỉ bởi kích thước, mà cả bởi những gì bức tường đó đại diện. “Ta” ở một phía, “địch” thì ở phía bên kia.

Ba mươi năm trước, một bức tường đã sụp đổ, đưa tới thời đại mới có vẻ như là thời của sự cởi mở và chủ nghĩa quốc tế. Năm 1987, Tổng thống Ronald Reagan ghé thăm cổng chào Brandenburg ở Berlin lúc đó còn đang bị chia đôi và kêu gọi người đồng cấp với ông ở phía Liên bang Xô Viết, “Ngài Gorbachev – kéo sập bức tường này đi*.” Hai năm sau, nó đã sập. Berlin, Đức, và rồi châu Âu lại được thống nhất lần nữa. Trong thời đại đầy phấn khích đó, một số học giả đã tiên đoán lịch sử đã kết thúc. Tuy nhiên, lịch sử đã không kết thúc.

Trong những năm gần đây, tiếng hô “Hãy kéo sập bức tường” đang thất thế trước “não trạng pháo đài”. Tiếng hô đó chật vật tìm người nghe, không thể cạnh tranh được với những cao điểm đáng sợ của nhập cư ồ ạt, phản ứng dữ dội trước toàn cầu hóa, sự nổi lên trở lại của chủ nghĩa dân tộc, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và vụ tấn công 11 tháng Chín và những gì diễn ra sau đó. Đó là những lằn ranh đứt gãy sẽ định hình thế giới chúng ta trong những năm sắp tới.

Chúng ta nghe nói rất nhiều về bức tường Israel, bức tường biên giới Hoa Kỳ-Mexico, và một số bức tường ở châu Âu, nhưng điều nhiều người không nhận ra là các bức tường đang được xây lên dọc biên giới ở khắp nơi. Hàng nghìn dặm tường và hàng rào mọc lên trên khắp thế giới trong thế kỷ 21. Ít nhất sáu mươi lăm nước, hơn một phần ba các nhà nước quốc gia [nation state] trên thế giới, đã xây lên những hàng rào dọc đường biên giới của họ, một nửa số bức tường xuất hiện sau Thế chiến II mới chỉ được xây từ năm 2000 tới giờ.

Riêng tại châu Âu, trong vài năm qua, những bức tường, hàng rào và rào chắn có thể đã được dựng lên nhiều hơn so với thời đỉnh điểm chiến tranh lạnh. Chúng bắt đầu bằng sự chia tách giữa Hy Lạp và Macedonia, Macedonia và Serbia, và Serbia với Hungary, và khi chúng ta ngày càng ít thấy sốc hơn với mỗi dãy hàng rào dây thép gai mới, những nước khác nối bước – Slovenia đã bắt đầu xây dựng ở biên giới với Croatia, Áo đã lập hàng rào với Slovenia, Thụy Điển lập lên các rào chắn để ngăn người nhập cư bất hợp pháp vượt sang từ Đan Mạch, trong khi Estonia, Latvia và Lithuania đều đã bắt đầu các công cụ phòng ngự ở biên giới của họ với Nga.

Nhưng chắc chắn không chỉ có mình châu Âu: Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã xây dựng một hàng rào dọc theo biên giới với Oman, Kuwait làm tương tự với Iraq. Iraq và Iran duy trì sự chia cắt hữu hình, tương tự là Iran và Pakistan – tất cả 435 dặm (khoảng 700 kilômét) hàng rào. Ở Trung Á, Uzbekistan, bất chấp là một nước không có biển, đã đóng cửa với năm nước láng giềng, Afghanistan, Tajikistan, Kazakhstan, Turkmenistan và Kyrgyzstan. Biên giới với Tajikistan thậm chí còn được gài mìn. Và câu chuyện cứ thế tiếp tục, qua những rào chắn chia tách Brunei và Malaysia, Malaysia và Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ, Ấn Độ và Bangladesh, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, cứ như thế trên toàn thế giới.

Những bức tường này nói với chúng ta nhiều điều về nền chính trị quốc tế, nhưng sự lo lắng mà chúng đại diện vượt ra khỏi các biên giới nhà nước quốc gia nơi có chúng. Mục đích chính của những bức tường xuất hiện khắp châu Âu là để ngăn làn sóng người nhập cư – nhưng chúng cũng nói lên nhiều điều về sự chia rẽ và bất ổn sâu xa hơn trong chính cấu trúc của Liên minh châu Âu, và nội trong các nước thành viên của nó. Bức tường do Tổng thống Trump đề xuất dọc biên giới Hoa Kỳ-Mexico là nhằm ngăn cản dòng người nhập cư từ phía nam, nhưng nó cũng đụng tới nỗi sợ sâu xa hơn mà nhiều người ủng hộ bức tường đó cảm nhận được về sự thay đổi nhân khẩu học.

Sự chia rẽ định hình nền chính trị ở mọi cấp độ – cá nhân, địa phương, quốc gia và quốc tế. Mỗi câu chuyện đều có hai mặt, giống như mỗi bức tường vậy. Điều tối quan trọng là ý thức được điều gì đã chia rẽ chúng ta, và điều gì tiếp tục chia rẽ chúng ta, để hiểu được những gì đang diễn ra trong thế giới ngày nay.

* * *

Hãy hình dung phần khởi đầu kiệt tác khoa học giả tưởng năm 1968 của Stanley Kubrick* 2001: A Space Odyssey [tạm dịch: Hành trình không gian], trong trường đoạn mang tựa đề “Bình minh của loài người”. Ở thảo nguyên châu Phi thời tiền sử, một bộ lạc nhỏ những sinh vật người nguyên thủy/người vượn đang cùng nhau uống nước bình yên ở một vùng nước thì một bộ lạc khác xuất hiện. Những cá nhân đó rất vui lòng chia sẻ giữa những thành viên trong nhóm mình – nhưng không phải với bộ lạc “khác” mới đến. Một cuộc thi gào rú diễn ra sau đó, và nhóm mới đã chiếm được vũng nước, buộc những kẻ cũ phải rút lui. Ở đây, nếu những kẻ mới tới đủ sáng tạo để làm ra gạch và trộn được xi măng, họ có thể sẽ xây một bức tường bảo vệ tài sản của họ. Nhưng bởi chuyện này diễn ra vài triệu năm trước, họ phải đấu tranh một lần nữa khi vài ngày sau bộ lạc đầu tiên quay trở lại, sẵn sàng tham chiến, để giành lại lãnh thổ của mình.

Chúng ta luôn thích không gian của riêng mình. Việc nhóm lại thành những bộ lạc, cảm giác bất an trước những kẻ bên ngoài và sự phản ứng với những mối đe dọa nhận thức được đều là những việc đậm chất con người. Chúng ta hình thành những mối quan hệ không chỉ quan trọng cho sự sinh tồn, mà còn cho cả sự cố kết xã hội nữa. Chúng ta phát triển một bản sắc nhóm, và điều này thường dẫn tới xung đột với những nhóm khác. Các nhóm tranh giành nhau nguồn lực, nhưng cũng có yếu tố xung đột về bản sắc – một tường thuật về “chúng ta và chúng nó”.

Trong lịch sử loài người thời kỳ đầu, chúng ta là những người săn bắt-hái lượm: chúng ta chưa định cư, hay chưa có được các nguồn lực cố định lâu dài mà những kẻ khác có thể thèm muốn. Rồi, ở vùng mà ngày nay chúng ta gọi là Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông, loài người bắt đầu làm nông nghiệp. Thay vì lang thang khắp nơi để tìm cái ăn, hay chăn bầy gia súc, họ cày cấy trên những cánh đồng và đợi mùa thu hoạch. Bỗng nhiên (trong bối cảnh tiến hóa) ngày càng nhiều người chúng ta cần xây lên những rào chắn những bức tường và mái nhà để chúng ta và bây gia súc của chúng ta trú ngụ, những hàng rào để đánh dấu lãnh thổ của chúng ta, những pháo đài để rút lui vào nếu lãnh thổ của chúng ta bị tấn công, và những chòi canh để bảo vệ hệ thống mới này. Những bức tường đó có công năng và thường là có hiệu quả.

Thời đại của những bức tường đã đến với chúng ta và những pháo đài to lớn đã túm chặt lấy trí tưởng tượng của chúng ta kể từ đó. Chúng ta vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về các bức tường của Troy, Jericho, Babylon, Vạn Lý Trường Thành, Đại Zimbabwe, trường thành Hadrian, bức tường Inca ở Peru, Constantinople và nhiều bức tường khác nữa. Chúng cứ nối dài mãi, theo thời gian, khu vực và văn hóa, cho tới thời hiện đại – nhưng giờ chúng có thêm lưới điện, có đèn pha quét ở trên cao và máy quay an ninh.

Tuy nhiên, những sự chia rẽ vật lý này được phản chiếu qua sự chia rẽ trong tâm trí – những ý tưởng lớn đã dẫn dắt nền văn minh của chúng ta và trao cho chúng ta bản sắc và một cảm nhận thuộc về nơi nào đó – chẳng hạn như cuộc đại ly giáo của Kitô giáo, sự chia tách Islam [Hồi giáo] thành Sunni và Shia, và gần đây hơn trong lịch sử là những trận chiến giữa chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và dân chủ.

Tựa đề cuốn sách năm 2005 của Thomas Friedman The World is Flat* dựa trên niềm tin rằng toàn cầu hóa tất sẽ đưa chúng ta lại gần nhau hơn. Toàn cầu hóa đã gia tăng thương mại quốc tế: ta có thể nhấp chuột và có người ở Thượng Hải sẽ đặt một món đồ vào trong một chiếc hộp và gửi nó cho ta – nhưng đó không nhất thiết là sự thống nhất. Toàn cầu hóa cũng truyền cảm hứng để chúng ta xây lên những rào chắn, nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khi chúng ta không còn tiền nữa. Khi đối mặt những mối đe dọa tăng thêm theo cảm nhận chủ quan – chủ nghĩa khủng bố, xung đột bạo lực, người tị nạn và nhập cư, khoảng cách ngày càng tăng giữa người giàu và người nghèo – người ta lại càng bám chặt vào nhóm của mình.

Thời đại mới của sự chia rẽ mà chúng ta đang sống được phản ánh và làm trầm trọng hơn bởi những tiến bộ của thế giới số. Người đồng sáng lập Facebook, Mark Zuckerberg, tin rằng mạng xã hội sẽ thống nhất chúng ta. Sau đó ông thừa nhận rằng ông đã lầm. Trong một số khía cạnh, mạng xã hội đã mang chúng ta lại gần nhau hơn, nhưng nó đồng thời trao tiếng nói và khả năng tổ chức cho những bộ lạc mới trên mạng, một số bỏ thời gian để buông lời công kích và gây chia rẽ khắp thế giới mạng. Có vẻ như chưa bao giờ có nhiều bộ lạc như thế, và nhiều xung đột giữa họ như thế. Câu hỏi chúng ta đối mặt ngày nay là: Các bộ lạc thời hiện đại có hình dạng thế nào? Liệu chúng ta định nghĩa chính mình theo giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, hay quốc tịch chăng? Và liệu những bộ lạc đó có thể cùng tồn tại?

Tất cả đều quy về ý niệm “chúng ta và chúng nó” cùng những bức tường mà chúng ta dựng lên trong tâm trí mình. Đôi khi “kẻ khác” có một ngôn ngữ hay màu da khác; một tôn giáo khác hay một hệ thống niềm tin khác. Một ví dụ xảy ra gần đây khi tôi ở London với một nhóm ba mươi nhà báo trẻ hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới mà tôi nhận đào tạo. Tôi nhắc tới cuộc chiến tranh Iran-Iraq, trong đó có tới một triệu người đã chết, và tôi sử dụng cụm từ có thể là vụng về: “người Hồi giáo giết người Hồi giáo”. Một nhà báo Ai Cập trẻ tuổi đã nhảy ra khỏi ghế và hét lên rằng anh ấy không cho phép tôi nói thế. Tôi chỉ ra số liệu thống kê từ cuộc chiến kinh hoàng đó và anh ấy đáp, “Phải, nhưng người Iran không phải người Hồi giáo.”

Bỗng nhiên tôi ngộ ra, và trái tim tôi chùng xuống. Đa số người Iran là người Shia, nên tôi hỏi anh ấy, “Anh đang nói rằng người Shia không phải người Hồi giáo?”

“Phải,” anh ta đáp. “Shia không phải là người Hồi giáo.”

Những sự chia rẽ như thế không vì cạnh tranh nguồn lực, mà vì lời tuyên bố rằng những gì ta nghĩ chính là chân lý duy nhất, và những ai có quan điểm khác biệt là những kẻ thấp kém hơn. Với sự chắc chắn về tính ưu việt của bản thân như thế, những bức tường nhanh chóng mọc lên. Nếu ta đưa thêm vào sự cạnh tranh nguồn lực nữa, chúng còn mọc lên cao hơn. Có vẻ như đó chính là hiện trạng của chúng ta.

Thế giới theo nhiều nghĩa đang tốt đẹp hơn bao giờ hết. Trong những thập niên gần đây, hàng trăm triệu người đã thoát khỏi nghèo đói cùng cực; tỷ lệ mắc bệnh sốt rét đang giảm; bệnh bại liệt gần như đã được thanh toán; tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống. Bạn muốn sống ở thế kỷ 16 hay thế kỷ 21? Bất chấp quyền lực và của cải của bà, Nữ hoàng Elizabeth I* phải chịu đựng những cơn đau răng khổ sở hơn rất nhiều so với hầu hết những người dân thường sống ở phương Tây ngày nay. Nhưng chúng ta đang gây ra nhiều mối nguy cho sự tiến bộ đó. Thời đại hậu Thế chiến II rốt cuộc dẫn tới sự sụp đổ của bức tường Berlin đã nhường chỗ cho một giai đoạn mới, trong đó lập trường trung dung ngày càng chịu nhiều áp lực, trong khi những tiếng loa lớn tiếng kêu gọi cực đoan ngày càng mạnh hơn. Không hẳn là chúng ta đang tụt hậu, nhưng chúng ta cần hiểu, công nhận – và đôi khi thậm chí là chấp nhận – sự chia rẽ vẫn đang tồn tại nếu chúng ta muốn dựng xây sự thống nhất.

Vì mục đích của cuốn sách này, tôi sử dụng từ bức tường thay cho những rào chắn, vách ngăn và các kiểu chia rẽ khác nhau. Chúng ta quả có nhìn thấy các bức tường vật chất ở mỗi chương, hầu hết chúng bằng gạch và vữa, hay bê tông và dây thép gai, nhưng những bức tường đó là phần “cái gì” của sự chia rẽ, không phải là phần “tại sao” – và chúng chỉ mới là phần mở đầu câu chuyện.

Tôi không thể viết về mọi vùng miền bị chia rẽ. Thay vì thế, tôi tập trung vào những khu vực minh họa tốt nhất cho thách thức với bản sắc trong một thế giới đã toàn cầu hóa: những tác động của nhập cư (Hoa Kỳ, châu Âu, tiểu lục địa Ấn Độ); chủ nghĩa dân tộc như một thế lực vừa thống nhất vừa chia rẽ (Trung Quốc, Anh, châu Phi); và những sự giao cắt về tôn giáo và chính trị (Israel, Trung Đông).

Ở Trung Quốc, chúng ta chứng kiến một nhà nước quốc gia mạnh mẽ với nhiều chia rẽ bên trong biên giới của đất nước đó – chẳng hạn như bất ổn ở địa phương và chênh lệch giàu nghèo – những chia rẽ tạo ra nguy cơ cho sự thống nhất quốc gia, đe dọa sự phát triển kinh tế và quyền lực; do đó chính quyền phải thực thi sự kiểm soát với người dân Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng chia rẽ, vì những lý do khác: thời đại của Trump đã làm các quan hệ chủng tộc thêm gay gắt ở Xứ Tự do, nhưng đồng thời bộc lộ sự chia rẽ chưa từng thấy giữa phe Cộng hòa và Dân chủ, những người đang kình chống nhau quyết liệt hơn bao giờ hết.

Sự chia rẽ giữa Israel và Palestine đã lâu đời, nhưng với quá nhiều sự chia rẽ nhỏ hơn trong dân chúng ở mỗi bên, việc nhất trí được một giải pháp gần như là bất khả. Chia rẽ tôn giáo và sắc tộc cũng làm bùng lên bạo lực khắp vùng Trung Đông, thể hiện rõ cuộc tranh đấu then chốt giữa những người Hồi giáo Shia và Sunni – mỗi sự kiện là kết quả của những thành tố phức tạp, nhưng phần lớn sự chia rẽ tới từ tôn giáo, đặc biệt là từ mối kình địch trong vùng giữa Saudi Arabia và Iran. Ở tiểu lục địa Ấn Độ, những sự dịch chuyển của dân cư, hiện nay và trong những năm sắp tới, cho thấy cảnh ngộ của những người chạy trốn sự truy bức tôn giáo cũng như của rất nhiều người tị nạn kinh tế và khí hậu.

Ở châu Phi, các đường biên giới do chủ nghĩa thực dân bỏ lại đang tỏ ra khó tương thích với những bản sắc bộ lạc vẫn còn đậm nét. Khắp châu Âu, chính ý tưởng về một khối Liên Âu đang bị đe dọa khi các bức tường mọc lên trở lại, cho thấy những khác biệt từ thời Chiến tranh Lạnh chưa được giải quyết hoàn toàn, và cho thấy chủ nghĩa dân tộc chưa bao giờ thật sự biến mất ở thời đại của chủ nghĩa quốc tế. Và khi Anh rời EU, Brexit bộc lộ sự chia rẽ khắp vương quốc – những bản sắc khu vực lâu đời, cũng như những căng thẳng xã hội và tôn giáo gần đây hơn, vốn đã định hình trong thời đại toàn cầu hóa.

Trong một thời kỳ của sợ hãi và bất ổn, mọi người sẽ tiếp tục tụ lại với nhau, để bảo vệ bản thân họ khỏi những mối đe dọa mà họ nhận thức được. Những mối đe dọa này không chỉ tới từ những đường biên giới. Chúng cũng có thể đến từ bên trong – như Trung Quốc biết rất rõ…

— Chương Một : VẠN LÝ HỎA THÀNH – TRUNG QUỐC

Các hoàng đế Trung Hoa luôn chật vật để tìm cách thống nhất những “tiểu vương quốc” chư hầu tách rời và chia rẽ của họ thành một khối thống nhất. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng vậy. Ông có thể không được gọi là hoàng đế, nhưng các chức danh chính thức của ông khiến ta không khỏi nghi ngờ – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Phát triển Quân sự Dân sự Hợp nhất Trung ương – danh sách này cứ kéo dài mãi. Ông không chỉ là Lãnh tụ tối cao, ông còn là Lãnh tụ thậm tối cao.

Những thứ đặt dưới quyền lãnh đạo của ông đều mênh mông, bao gồm cả những thách thức. Đất nước Trung Quốc gồm năm múi giờ tương ứng với diện tích cỡ Hoa Kỳ. Trong không gian này có 1,4 tỉ người đa dạng về sắc tộc sinh sống, nói hàng chục thứ ngôn ngữ khác nhau, đó là một đế chế đa sắc tộc mang những đặc trưng Trung Quốc đỏ. Có thể có năm múi giờ về mặt địa lý, nhưng chỉ có một giờ chính thức. Câu trả lời cho câu hỏi “Mấy giờ rồi?” là “Bắc Kinh nói mấy giờ thì là mấy.” Quy tắc trọng tâm này từ lâu đã thế, nhưng vị hoàng đế của thế kỷ này tận hưởng sự thoải mái mà ít người tiền nhiệm nào của ông có được. Ông có thể theo dõi đế quốc của mình từ trên không trung – không chỉ là vùng lãnh thể được dãy Himalaya bao bọc, kéo dài tới biển Nhật Bản và sa mạc Gobi, về tới biển phía nam, mà giờ còn là cả một đế chế kinh tế trải khắp toàn cầu.

Tập rất giỏi việc thị uy quyền lực của ông. Ông công cán nhiều hơn so với nhiều người tiền nhiệm. Ông bay tới các thủ đô trên thế giới, tự tin vào quyền lực kinh tế thống nhất của đất nước Trung Quốc mới, nhưng trên đường tới sân bay, ông sẽ được nhắc nhở rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải luôn cẩn trọng ra sao để đảm bảo trung ương nắm giữ quyền lực. Để làm được điều đó, họ phải trở thành những bậc thầy trong việc lặng lẽ thúc đẩy sự thống nhất thông qua chia rẽ.

Khi ta lái xe theo hướng đông-bắc dọc theo đường cao tốc sân bay rời Bắc Kinh về phía Vạn Lý Trường Thành, những chia rẽ trong dân chúng ban đầu khó xác định với một người nước ngoài, nhưng rồi trở nên ngày càng dễ thấy. Tập có thể thấy ngay điều này vì nhiều chia rẽ đó đã nổi lên trong đời ông, một số nổi lên trong thời kỳ ông lãnh đạo.

Từ trung tâm thành phố, với những chùa miếu lấp lánh ánh đèn neon của chủ nghĩa tiêu dùng và các khu chung cư cao cấp của những người khá giả, con đường đi qua hàng dặm những dãy căn hộ cao tầng của giai cấp trung lưu đang đông dần lên. Xa hơn nữa là nhà máy và các công nhân, những người hết năm này qua năm khác tiếp tục đổ về thủ đô và các thành phố lớn khác từ vùng nông thôn. Dân địa phương có thể nhận ra những khu nhà chung cư nào được xây dựng chất lượng hơn hẳn, và những khu nào được dựng lên vội vàng để kịp dòng di dân. Một khi đã vào những thị trấn nhỏ và làng mạc, không còn mấy đèn neon, và thương mại hóa cũng ít hơn. Ở vùng này của Trung Quốc, các thị trấn là những khu xám xịt, không màu sắc, kham khổ, chẳng có mấy tiện ích; trong mắt người nước ngoài, chỉ có một cảm giác u tối tràn ngập. Đây có lẽ là sự chia rẽ lớn nhất của Trung Quốc – giữa thành thị và nông thôn, người giàu và người nghèo – và như chúng ta sẽ thấy sau này, điều đó làm đảng cầm quyền lo ngại. Đảng biết rằng sự đoàn kết và ổn định của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phụ thuộc rất lớn vào việc bắc cầu nối gần khoảng cách đó, và bàn tay thép của đảng nắm người dân sẽ tuột mất nếu đảng không làm được thế.

Sự thống nhất luôn là tối quan trọng với thành công của Trung Quốc, và đồng thời là một trong những thách thức lớn nhất của họ. Trong quá khứ, thứ đã đóng cả vai trò vật chất và biểu tượng trong việc thống nhất quốc gia là Vạn Lý Trường Thành. Nếu Tập đi tiếp theo đường cao tốc, qua khu sân bay, ông sẽ vào một con đường tám làn xe đi xa hơn về hướng đông bắc, và từ đó sẽ tới công trình gây ngợp cho trí tưởng tượng của cả thế giới.

Khi ta tới gần đoạn Mộ Điền Dục của Vạn Lý Trường Thành, đường cao tốc giảm chỉ còn một con đường hai làn xe đơn giản, các tòa nhà ít hơn và khung cảnh trở nên xanh tươi hơn. Cách bức tường vài dặm, con đường dẫn tới một bãi đậu xe nơi bạn phải chuyển sang một chiếc xe buýt để đi tới khúc cuối con đường. Tiếp đó sẽ là một chuyến đi cáp treo lên đỉnh hoặc một đoạn cuốc bộ leo dốc dài hai dặm (khoảng 3,2 kilômét), có thể là đi cùng một bầy dê. Chuyến thăm thú do dê hướng dẫn không phải là một tùy chọn – nếu lũ dê muốn đi theo bạn, chúng sẽ đi theo; còn không thì thôi. Dù chọn lối nào, bạn rốt cuộc sẽ thấy được thứ gì đó khiến cho nỗ lực này cực kỳ đáng công đáng sức.

Khi tôi lần đầu nhìn thấy hàng dặm tường gạch ngoằn ngoèo dọc theo những đỉnh núi, tôi không quá nể sợ như khi tôi ở, lấy ví dụ, hẻm núi lớn Grand Canyon*. Tôi cũng không thấy ngợp, như khi tôi ở trên tòa nhà cao nhất thế giới, Burj Khalifa ở Dubai. Tôi không cảm thấy ý thức hệ chính trị phát ra từ đó như tôi cảm thấy khi tới thăm bức tường Berlin ở đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh. Nhưng có thứ gì đó khác. Tôi cảm thấy, dù đúng hay sai, rằng tôi hiểu Trung Quốc rõ hơn một chút so với trước kia.

Điều đó không hề biến tôi thành một chuyên gia – còn lâu mới thế – nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi hiểu rõ hơn nhiều những cụm từ như “nền văn hóa cổ xưa” và “kỳ công vĩ đại nhất trong lịch sử loài người”, và cả ý tưởng rằng nhiều người ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn chia thế giới thành những ai là người Trung Quốc và những ai không phải. Rốt cuộc, bức tường được xây lên dựa trên một ý tưởng đơn giản: ở một bên là nền văn minh, còn bên kia là sự man di mọi rợ.

Đằng sau tôi, về phương nam, là vùng trung tâm của Trung Nguyên tràn ngập người Hán. Về phương bắc, ở khoảng cách xa, vượt qua những rặng núi, là nơi bắt đầu của thảo nguyên và sa mạc Mông Cổ, bên phải là Mãn Châu Lý và bên trái là vùng Tân Cương.

Trước khi bức tường tồn tại, khoảng 2.500 năm trước, vùng núi phía bắc đảm bảo một mức độ bảo vệ cho người Hán, một dân tộc đã phát triển xã hội định cư những vùng đất màu mỡ trên bình nguyên Hoa Bắc. Nhưng các nhóm cướp bóc, và đôi khi là cả những đạo quân, từ cả ba vùng nói trên sẽ tìm được đường vượt đèo vào vùng đất nông nghiệp bằng phẳng của các nhà nước phong kiến và các đô thị như Bắc Kinh, Lạc Dương và Khai Phong. Và bởi thế, trong nhiều thế kỷ, người Trung Quốc đã phát triển biểu tượng tinh hoa về “chúng ta và chúng nó” này, rồi dựng lên bằng đá.

Nhà Trung Hoa học vĩ đại người Mỹ John King Fairbank* đã có một mô tả vào loại hay nhất về Vạn Lý Trường Thành, ông gọi nó là “lằn ranh chia cắt thảo nguyên với đồng ruộng, du mục với nông nghiệp, và man rợ với văn minh”. Và điều này phù hợp với thái độ áp đảo “Dĩ Hoa vi trung” thời bấy giờ – lòng tin rằng Trung Quốc là trung tâm văn hóa của trái đất, và là nền văn minh tiên tiến nhất. Người Hán cũng tin rằng hoàng đế Trung Hoa là người duy nhất có chân mệnh thiên tử trên toàn thế giới, và bởi thế là hoàng đế hợp pháp của thế giới. Từ đó suy ra rằng không chỉ mọi nhà cai trị khác đều thấp kém hơn, mà mọi nền văn minh khác cũng ở đẳng cấp thấp hơn họ. Những láng giềng gần và các sắc tộc khác được đưa vào dưới sự cai trị của hoàng đế, dù họ có thể có những lãnh đạo địa phương của riêng mình.

Những nhà nước man di ở gần có thể có vua, nhưng họ phải công nhận rằng họ thấp kém hơn so với hoàng đế Trung Hoa. Và ngay cả những nơi xa xôi hơn, như Tân Cương, Java và Nhật Bản, cũng bị gọi là “thuộc quốc” và phải triều cống cho Trung Nguyên. Đây không phải là một thế giới quan được thiết kế để có thêm bạn bè, nhưng chắc chắn là nó có ảnh hưởng lên con người, và trong một thời gian dài nó đã hiệu quả.

Trong hàng thế kỷ, Vạn Lý Trường Thành đã củng cố cho an ninh của Trung Quốc, gắn kết đất nước lại như một thực thể chính trị và mang tới sự ổn định để phát triển các vùng đất nông nghiệp ở miền tây và miền bắc. Bởi bức tường trải rộng về hướng tây,nó cũng bảo vệ một phần Con đường tơ lụa, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chiều dài tối đa của nó, tính cả các bức tường song song, hệ thống phòng thủ này trải ra hơn 20.900 kilômét. Để cảm nhận được quy mô của nó, chiều dài này tương đương với bốn bức tường song song nhau, mỗi bức tường kéo dài từ bờ biển phía đông Hoa Kỳ tới tận Thái Bình Dương, mà vẫn còn thừa rất nhiều gạch.

Mặc dù vai trò vật chất của nó trong việc thống nhất đất nước giảm dần theo năm tháng, nó vẫn là một biểu tượng quan trọng trong tâm thức dân tộc. Quan trọng tới mức sau khi những người cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949, Mao Trạch Đông đã nhắc tới bức tường trong một bài thơ về cuộc Trường Chinh tựa đề “Lục Bàn sơn”, với những dòng:

Trời cao mây nhạt,

Bóng nhạn hút về nam.

Chưa đến Trường Thành sao là hảo hán,

Bấm đốt ngón tay đã đi hai vạn dặm…*

Lời của dòng thơ áp chót ở trên sau này đã trở thành một thành ngữ nổi tiếng, “Bất đáo Trường Thành, phi hảo hán”, nghĩa là “Nếu chưa vượt qua gian khổ, thì chưa thể là người anh hùng.”

Bài thơ gây ra một số vấn đề ở chế độ mới, khi những người cộng sản có vẻ có quan điểm xung đột nhau về bức tường – nhiều người coi đó là một biểu tượng của quá khứ phong kiến của đất nước và tin rằng nó nên thuộc về lịch sử, thậm chí khuyến khích mọi người phá bỏ nó. Nhưng bởi Mao đã viết về nó, những người cộng sản khác muốn tới thăm nó để cho thấy “tinh thần của Mao Chủ tịch”. Nếu tới khu vực Mộ Điền Dục, ta có thể thấy những chữ tiếng Hoa màu trắng khổng lồ được viết trên đỉnh núi, “Trung thành với Mao Chủ tịch”. Và bức tường được nhắc trong bài quốc ca, được thông qua năm 1949,nên rõ ràng là đảng công nhận tầm quan trọng văn hóa và lịch sử của nó. Trong phần lớn thời gian, họ đồng ý với việc phớt lờ nó – ít nhất là vào giai đoạn đầu. Tuy nhiên, trong Cách mạng Văn hóa, những người quyết liệt nhất trong các Hồng vệ binh đã tích cực phá hủy một phần bức tường – với họ nó thuộc về “Tứ cựu”, những điều không có chỗ trong nước Trung Hoa mới: cựu phong tục, cựu văn hóa, cựu tập quán và cựu tư tưởng.

Mao chết năm 1976, và ra đi cùng ông là cuộc Cách mạng Văn hóa. Sau năm 1978, nhà lãnh đạo mới, Đặng Tiểu Bình, bắt đầu việc trùng tu bức tường một cách có phương pháp. Ông khởi đầu chậm chạp – những năm đầu sau thời Mao là thời kỳ cần thận trọng – nhưng tới năm 1984, ông đã đủ tự tin để tuyên bố, “Hãy yêu đất nước Trung Quốc của chúng ta và phục dựng Trường Thành.” Trong nỗ lực đặc biệt này, có khả năng là Đặng còn lưu ý tới du lịch và ngoại tệ; giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc bắt đầu đón nhận những khía cạnh của chủ nghĩa tư bản, và ý thức rõ họ đã tụt hậu so với những vùng khác trên thế giới ra sao. Vì thế luật pháp được thông qua khiến việc phá hoại, di dời hay viết vẽ bậy lên bất kỳ nơi nào của bức tường là phi pháp, cùng những cố gắng tái thiết (thi thoảng thành công) và một nỗ lực hướng tới việc thu hút du khách.

Vạn Lý Trường Thành đóng một vai trò lớn trong trí tưởng tượng đại chúng của cả Trung Quốc và phần còn lại của thế giới – dù một số sử gia lập luận rằng người châu Âu thấy ám ảnh bởi nó hơn là chính người Trung Quốc, và rằng điều đó đóng góp vào nhận thức, cùng với sự bản sắc hóa, đối với công trình này ở chính Trung Quốc. Nên bức tường đã có vai trò tối quan trọng trong việc định nghĩa Trung Quốc từ bên ngoài cũng như từ bên trong.

Trên thực tế, bức tường chỉ thành công khiêm tốn về mặt quân sự. Chắc chắn là hệ thống cảnh báo sớm, các pháo đài và những thành trì chiến lược của nó mang tới chút bảo vệ, nhưng như chúng ta đã thấy, chúng không hề là bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, vai trò của bức tường làm biểu tượng cho sự phòng ngự, cho việc chia cắt người Hán với “những kẻ bên ngoài” là vô giá; ngày nay nó vẫn tiếp tục là một biểu tượng của một nền văn hóa lớn và cổ xưa.

* * *

Nhưng với nền văn hóa lớn và hiện đại thì sao?

Tần Thủy Hoàng, người sáng lập nên nhà Tần, đã thành công trong việc thống nhất bảy nước thời chiến quốc thành một nước Trung Hoa vào năm 221 trước công nguyên, nhưng chỉ vì nó đã tồn tại hai mươi ba thế kỷ không mặc nhiên đồng nghĩa là nó sẽ tồn tại thêm một thế kỷ nữa.

Người Trung Quốc không thích nói chuyện với người ngoài về những vấn đề và sự chia rẽ trong đất nước họ. Trong khi bạn chẳng phải đi đâu xa để tìm được một ai đó ở Anh hay Pháp chẳng hạn, người sẽ thoải mái nói với bạn rằng đất nước họ đang sụp đổ đến nơi, ở Trung Quốc, việc chỉ trích đất nước bị coi là không yêu nước và mất thể diện. Tất nhiên, điều đó cũng có thể nguy hiểm nữa, bởi Trung Quốc vẫn là một chế độ độc đảng.

Dẫu vậy, có những vấn đề và sự chia rẽ ở hai mươi ba tỉnh, bốn đô thị trực thuộc, năm khu tự trị, và hai khu hành chính đặc biệt của đất nước. Một trong những chia rẽ lớn nhất là giữa vùng trung tâm người Hán và những vùng không phải người Hán xung quanh, tạo nên một hình bán nguyệt. Ở đông bắc là Mãn Châu Lý, ở phía bắc là Nội Mông, ở tây bắc là Tân Cương và phía tây là Tây Tạng. Những vùng này là tối quan trọng về an ninh, nguồn tài nguyên thiên nhiên và thương mại, nhưng tất cả đều không mặn mà với sự cai trị từ Trung Quốc. Mãn Châu Lý giờ người Hán áp đảo hoàn toàn, nhưng những vùng kia vẫn duy trì bản sắc, ngôn ngữ, phong tục của riêng họ, và trong trường hợp Tân Cương và Tây Tạng là cả tôn giáo (Hồi giáo và Phật giáo) cùng các phong trào ly khai nữa.

Trung Quốc đã cố gắng kiểm soát Tân Cương và dân tộc Uighur [Duy Ngô Nhĩ] ở đây được vài thế kỷ, nhưng dân chúng chưa bao giờ hoàn toàn chấp nhận sự thống trị của Bắc Kinh. Đã có hàng loạt những cuộc nổi dậy vào thế kỷ 18 và 19 và thậm chí cả một nước Cộng hòa Đông Turkestan chết yểu vào những năm 1930. Mao sau đó sáp nhập Tân Cương vào năm 1949 và vùng này giờ chiếm khoảng một phần sáu lãnh thổ Trung Quốc. Để hình dung ra Tân Cương hoang vu và thưa thớt dân cư tới mức nào, thật đáng chỉ ra rằng nó có diện tích bằng một nửa Ấn Độ, nhưng với dân số không bằng 2% [dân số Ấn Độ].

Những năm qua đã chứng kiến việc định cư lượng lớn người Hán tại Tân Cương, và trong khoảng thời gian vài năm, họ có thể đã chiếm gần một nửa dân số 22 triệu người hiện tại. Chuyện này diễn ra không hoàn toàn suôn sẻ. Người Uighur than phiền rằng họ bị loại trừ khỏi những công việc tốt hơn và bị lực lượng bán vũ trang trong các công ty xây dựng do nhà nước kiểm soát truy bức, và thỉnh thoảng có bạo động và xung đột sắc tộc nổ ra. Sự chống đối đôi khi được thực hiện qua hệ thống tư pháp, nhưng cũng có một chiến dịch khủng bố nhỏ, một phần là do các tay súng Hồi giáo kích động, những người này vốn trở về từ Iraq và Syria. Các tổ chức jihad ở những nước cộng hòa Trung Á được cho là đã hỗ trợ họ, cung cấp tiền bạc, và nếu cần thiết, những nơi trú ẩn an toàn. Chuông báo động bắt đầu reo khi nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) công bố một đoạn video cho thấy những người Uighur được huấn luyện ở Iraq, thề sẽ cắm lá cờ của họ ở Trung Quốc và đe dọa máu sẽ “chảy thành sông”.

Vào mùa xuân năm 2017, đã có một đợt bạo lực sắc tộc bùng phát ở khu vực giữa người Uighur và người Hán. Tiếp theo là màn trình diễn của lực lượng quân đội nhà nước được vũ trang đến tận răng. Lãnh đạo đảng Cộng sản trong vùng nói các binh sĩ sẽ “chôn xác bọn khủng bố trong biển chiến tranh nhân dân”. Chủ tịch Tập hơi kiềm chế hơn, hài lòng với việc kêu gọi một “Trường Thành thép” được xây lên để bảo vệ Tân Cương và cảnh báo rằng chia rẽ sắc tộc sẽ không được chấp nhận – “Đoàn kết dân tộc quý giá như con ngươi trong mắt,” ông nói. Vào đầu năm 2018, phiên bản về sự đoàn kết này của Tập là ra sắc lệnh yêu cầu một triệu đảng viên Cộng sản được cử tới sống với các gia đình Uighur địa phương. Những người tiếp nhận các “khách trú” bắt buộc này được khuyến khích thực hiện công tác quan hệ dân tộc của họ bằng cách cung cấp cho “những vị khách” thông tin chi tiết về quan điểm chính trị của họ. Đó là một kiểu nhà trọ Trung Quốc gặp gỡ “Bộ Tình yêu” của Orwell*, nhưng ở đấy phòng 101 chính là phòng khách nhà bạn.

Bất chấp tình trạng bất ổn, ít có khả năng Bắc Kinh sẽ giảm bớt sự kiểm soát. Vùng này đóng vai trò như vùng đệm, thuộc Con đường tơ lụa mới, và bởi thế tối quan trọng với thương mại, và nó có trữ lượng than đá rất lớn mà Trung Quốc, vốn luôn khát khao năng lượng, hết sức cần. Nhưng ngay cả như thế, nhà chức trách lo ngại sâu sắc về những sự cố ở đây. Sự chia rẽ và bất đồng ý kiến như thế làm xói mòn hình ảnh của đảng Cộng sản trong vai trò lực lượng quyền lực và bảo vệ người dân duy nhất.

Điều tương tự cũng đúng với Tây Tạng. Về mặt chiến lược, nó là vùng đệm với trung tâm, ngăn cản Ấn Độ thống trị vùng đất cao dọc biên giới – có thể coi dãy Himalaya như một rào chắn, đây có lẽ là lý do tại sao một cuộc xung đột lớn chưa bao giờ nổ ra giữa hai nước. Điều đó cũng cho phép Trung Quốc bảo vệ nguồn nước của họ – Tây Tạng đôi khi được gọi là “Tháp nước của châu Á” do quá nhiều dòng sông lớn bắt nguồn từ vùng này.

Nếu ta tính Tây Tạng là ba tỉnh thuộc vùng Tạng, thì nó có diện tích khoảng 2,5 triệu km², hay gần gấp bốn lần diện tích nước Pháp, và như thế chiếm khoảng một phần tư diện tích Trung Quốc. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh nói tới Tây Tạng, ý họ là Khu tự trị Tây Tạng, được thành lập sau khi Trung Quốc đánh bại quân đội Tây Tạng vào năm 1950. Nó có diện tích nhỏ hơn một nửa so với ba tỉnh gốc, khi phần còn lại của vùng này bị sáp nhập vào những vùng khác của Trung Quốc, và chỉ bao gồm một phần ba số người sắc tộc Tạng của Trung Quốc.

Giống như với người Uighur Hồi giáo, người Tạng Phật giáo vẫn duy trì cảm nhận bản sắc mạnh mẽ khác biệt với người Hán Trung Hoa. Nhưng với cả hai vùng, bất kỳ hy vọng tự trị nào đã gần như biến mất. Ở Tây Tạng, người ta ước tính một nửa dân số giờ là người Hán. Khó có được những con số chính xác, nhưng người ta cho rằng hiện có khoảng sáu triệu người Tạng và sáu triệu người Hán sống ở vùng này. Ở những thành phố lớn hơn, họ sống sát nhau, dù thường ở các khu khác nhau, mặc dù ở vùng nông thôn, người Tạng vẫn chiếm đa số.

Đang tải sách
Trang chủ